Đại biểu HĐND tỉnh bỏ phiếu tín nhiệm người giữ chức vụ do HĐND bầu tại kỳ họp thứ 11
Ảnh: Thanh Mộng

Trước hết, về cơ cấu cấp uỷ đảng đối với HĐND

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, được Hiến pháp quy định. Đây là yếu tố chi phối rất lớn đến tính hiệu quả và tính “quyền lực” trong hoạt động của HĐND. Thực tế đã chứng minh, ở đâu cấp ủy Đảng quan tâm, sâu sát trong lãnh đạo đối với hoạt động của HĐND thì ở đó HĐND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nhưng hiện nay, chưa có sự nhìn nhận thống nhất, nếu không muốn nói là còn có nơi xem nhẹ địa vị pháp lý của HĐND. Đặc biệt, trong mối quan hệ với UBND và các ngành chức năng thuộc UBND cùng cấp, cụ thể như ở cấp tỉnh, về mặt Luật pháp, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, do HĐND bầu ra, nhưng trên thực tế đa số các thành viên UBND đều được cơ cấu là Ủy viên Ban Thường vụ hoặc Ủy viên Ban chấp hành cấp uỷ; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh hầu hết là Uỷ viên Ban chấp hành Tỉnh uỷ, trong khi đó, hầu như Chủ tịch HĐND do Bí thư hoặc Phó bí thư Tỉnh uỷ kiêm nhiệm; còn đa số Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Ủy viên Ban chấp hành Tỉnh uỷ, còn các vị trí Ủy viên Thường trực HĐND, Trưởng ban HĐND không phải là Ủy viên cấp ủy (đa số). Chính việc bố trí thiếu tương ứng về vị thế chính trị (vai trò lãnh đạo của Đảng) là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của HĐND cấp tỉnh chưa phát huy hết vai trò được pháp luật quy định đặc biệt trong việc thực hiện 02 chức năng quan trọng nhất của HĐND là quyết định và giám sát.

Xét về mặt Chính quyền HĐND cao hơn UBND nhưng về mặt Đảng thì Thường vụ cấp uỷ lãnh đạo cấp uỷ viên, nên rất khó khăn cho Thường trực, mà đặc biệt là các Ban HĐND khi đưa ra ý kiến kết luận và kiến nghị thực hiện tại các cuộc khảo sát, giám sát, nhất là đối với UBND tỉnh, hoặc nếu có đưa ra ý kiến kết luận, nhưng UBND và các sở, ngành không tổ chức thực hiện thì HĐND, mà chủ yếu là các Ban HĐND “rất khó” trong việc đôn đốc, nhắc nhở.


Ban Văn hoá – Xã hội giám sát việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo- Ảnh: Thanh Mộng


Thứ hai, chức danh Uỷ viên Thường trực HĐND

Hiện nay, tổ chức bộ máy của HĐND còn không ít bất cập, trong khi UBND gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Uỷ viên, thì HĐND lại chỉ có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên Thường trực (mà Chủ tịch lại kiêm nhiệm). Việc quy định chức danh Ủy viên Thường trực HĐND làm giảm vai trò và hiệu lực trong việc thực hiện nhiệm vụ của HĐND, vị trí của chức danh này chưa được quy định rõ ràng, đứng ở vị trí nào trong bộ máy chính quyền. Nếu đặt câu hỏi, Uỷ viên Thường trực HĐND đứng ở vị trí nào trong hệ thống các chức danh lãnh đạo của cơ quan Nhà nước, sẽ nhận được câu trả lời là: dưới Phó chủ tịch (HĐND, UBND) và trên cấp trưởng ngành (đối với cấp tỉnh), trưởng phòng (đối với cấp huyện). Sở dĩ có quan niệm và nhận thức như vậy là do việc căn cứ vào phụ cấp trách nhiệm. Đối với mỗi chức danh lãnh đạo trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, chức danh nào có mức phụ cấp trách nhiệm cao hơn thì chức danh đó có vị trí cao hơn.

Thứ ba, về cơ cấu, tổ chức, số lượng Thường trực HĐND, các Ban của HĐND

Cơ cấu tổ chức, số lượng của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND còn nhiều bất cập, chưa có sự đồng nhất. Hiện nay với cơ cấu, Chủ tịch HĐND kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực, Trưởng các Ban chuyên trách, Phó Ban và thành viên Ban kiêm nhiệm (một số nơi Trưởng Ban kiêm nhiệm, 01 Phó Ban chuyên trách, 01 Phó Ban kiêm nhiệm; có nơi 02 Phó Ban chuyên trách), còn ở cấp huyện, các Ban đều hoạt động kiêm nhiệm, cấp xã thì không có các Ban. Vì vậy số lượng hoạt động của Thường trực HĐND và các Ban HĐND chỉ “đếm trên đầu ngón tay” (cấp tỉnh 06 người, cấp huyện 02 người, cấp xã 01 người), trong khi đó phần lớn các công việc của HĐND chủ yếu do các đại biểu chuyên trách thực hiện, thành viên các Ban thì nhiều nhưng bị chi phối bởi công việc chuyên môn và chưa dành nhiều thời gian tham gia hoạt động của Ban, trong khi cán bộ giúp việc của Văn phòng còn hạn chế (ở tỉnh mỗi ban chỉ 01 chuyên viên giúp việc, ở huyện 01 chuyên viên phục vụ tất cả hoạt động của HĐND), với nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật là rất lớn, vì vậy khó có thể đảm trách và thực hiện tốt tất cả các nhiệm vụ của HĐND trên các lĩnh vực, nhất là tham gia quyết định, theo dõi đôn đốc và giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh ở địa phương, các chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện tốt chức năng quyết định và giám sát, trong thời gian tới các ngành, các cấp khi sửa đổi Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, cũng như các quy định của Đảng, nhà nước cần quan tâm, xem xét tổ chức bộ máy của HĐND theo hướng.

- Đối với Thường trực HĐND:

+ Cấp tỉnh, huyện: Chủ tịch HĐND là Phó Bí thư Cấp uỷ chuyên trách HĐND, hoặc Bí thư cấp ủy là Chủ tịch HĐND thì phải bố trí 02 phó Chủ tịch HĐND, Thường trực HĐND bao gồm: Chủ tịch HĐND, 02 Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Các Ban HĐND trong đó; 01 Phó Chủ tịch là Uỷ viên Thường vụ cấp uỷ, 01 Phó Chủ tịch là Uỷ viên cấp uỷ, Trưởng các Ban là Uỷ viên cấp uỷ.

+ Cấp xã: Thường trực HĐND gồm Chủ tịch HĐND (Bí thư cấp uỷ), Phó Chủ tịch HĐND là Uỷ viên Thường vụ cấp uỷ hoạt động chuyên trách và Trưởng các Ban.

- Đối với các Ban HĐND:

+ Cấp tỉnh: thành lập 03 Ban: Kinh tế - Ngân sách, Văn hoá - Xã hội và Pháp chế, nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thì thành lập Ban Dân tộc hoặc bổ sung 01 phó Trưởng Ban Văn hóa – Xã hội hoạt động chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ của Ban về công tác dân tộc. Mỗi ban có 02 đại biểu hoạt động chuyên trách, gồm 01 Trưởng Ban, 01 Phó Trưởng Ban.

+ Cấp huyện: thành lập 03 Ban: Kinh tế - Ngân sách, Văn hoá – Xã hội và Pháp chế. Mỗi ban có 02 đại biểu hoạt động chuyên trách và các Uỷ viên Ban hoạt động kiêm nhiệm. Kiến nghị Trung ương bố trí Trưởng Ban là uỷ viên cấp uỷ

+ Cấp xã: thành lập 01 hoặc 02 Ban, Trưởng Ban hoạt động chuyên trách.

Từ phân tích, đánh giá một số nội dung cơ bản về tổ chức bộ máy của HĐND như trên, thiết nghĩ vấn đề thay đổi cơ cấu tổ chức của HĐND trong Luật Tổ chức Chính quyền địa phương có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động của HĐND các cấp, vì có như vậy HĐND mới thực sự có “lực” đủ mạnh để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, thể hiện đúng vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.

Thanh Mộng

Nhận xét

Bài liên quan